Trang chủ
Đơn vị
Tìm kiếm
Danh mục hồ sơ
Tin tức sự kiện
Hướng dẫn
1
Đăng nhập
Thông tin đơn vị
Trang chủ
Sở Văn Hóa
Bảo Tồn Giá Trị Văn ...
Bảo Tồn Giá Trị Văn ...
Thông tin thành phần hồ sơ
Tên hồ sơ:
Bảo Tồn Giá Trị Văn Hóa Truyền Thống Huyện Lục Nam
Đơn vị quản lý hồ sơ:
Sở Văn Hóa
Ký hiệu thành phần:
CTBT4
Tiêu đề thành phần:
Bảo Tồn Giá Trị Văn Hóa Truyền Thống Huyện Lục Nam
Danh sách tài liệu
STT
Đơn Vị Quản Lý
Loại hồ Sơ
Tiêu Đề Hồ Sơ
Ngày, tháng, năm văn bản
Mẫu Số
Địa Chỉ
Người Điều Tra
Người Viết
Người cung cấp tư liệu
Nội Dung 1
Nội Dung 2
Nội Dung 3
Chức năng
Trạng thái sửa đổi
1
BẢN THẢO SÁCH
VĂN HÓA CAO LAN BẢN KHÈ NGHÈ XÃ LỤC SƠN, HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢO TÀNG BẮC GIANG
PHẦN MỘT: LỊCH SỬ LÀNG BẢN
1. Vị trí địa lý và dân cư
Khe nghè là một bản nhỏ cùng cao nằm dưới chân giông mười, sườn tây bắc dãy Yên Tử hùng vĩ, thuộc địa phận xã Lục Sơn, huyện Lục Nam
Chi tiết
2
Cuốn Lịch sử họ Dương do ông Dương Văn Cao cùng Hội đồng gia tộc biên soạn cho biết: Họ Dương vốn ở tỉnh Quảng Tây, di cư đến Quảng Đông vào năm 1748
Năm 1768 đến Hoành Bồ (Quảng Ninh). Năm 1829 từ Hoành Bồ đêh Phắt Me (Móng Cái, Quảng Ninh). Năm 1881 đến Đá Bờ (nay thuộc huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang).
Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 một nhóm người Cao Lan từ Đá Bờ sang Đèo Gia (Lục Ngạn), một nhóm đến Vĩnh Ninh (nay thuộc xã Lục Sơn, huyện Lục Nam), rồi lập nên bản Trại Cao, hay còn gọỉ là trại Cao Lan vào năm Duy Tân thứ 2 (1908).
Chi tiết
3
4. Đặc điểm dân cư:
Như trên đã nói, dân cư của bản Khe Nghè đại đa số là người Cao Lan, các dân tộc khác như Kinh, Tày, Dao... chỉ có 8 người về làm dâu, rể tại bản.
Do đó ở Khe Nghè, văn hoá - phong tục tập quán của người Cao Lan là chủ đạo và chi phối sinh hoạt văn hoá của thôn bản.
Chi tiết
4
Người Cao Lan không theo chế độ ngành trưởng, không có sự phân biệt trưởng thứ giữa con vợ cả - vợ hai, con chú, con bác, cũng như con dì con già mà ai đẻ trước thì được coi là anh chị.
Việc thờ tổ tiên chỉ đến đời thứ ba. Đồng bào không cúng giỗ, khi bố mẹ mất, các con tự lập bàn thờ tại nhà mình, không thờ chung tại nhà con trưởng.
Đồng bào theo chế độ một vợ một chồng với nguyên tắc ngoại hôn dòng họ được xác lập từ lâu.
Chi tiết
5
Tết mùng 5 tháng 5 họ Lục cũng có truyện của nó: truyện kể rằng nhà họ Lục có nhiều chị em dâu cùng chung sống.
Một năm vào dịp tết mùng 5 tháng 5, các gia đình đều làm bánh ăn tết.
Trong nhà các chị em dâu tị nhau không ai chịu đi vớt bánh
Chi tiết
6
PHẦN HAI: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ TRUYỀN THỐNG
Cũng như các dân tộc thiểu số khác sinh sống ở vùng núi thấp, trước đây việc trồng trọt cây lương thực trên đất dốc là hoạt động kinh tế chủ đạo của người Cao Lan.
Tất cả các hoạt động khác như chăn nuôi, các ngành nghề thủ công gia đình, trao đổi buôn bán hay săn bắt hái lượm đều là những hoạt động kinh tế phụ mang tính chất bổ trợ cho hoạt động trồng trọt.
Chi tiết
7
Lúa nương trước đây là cây trồng có vị trí quan trọng thứ nhất của đồng bào.
Lúa nương bao gồm lúa tẻ, lúa nếp và lúa nếp cẩm là giống lúa phổ. biến được người Cao Lan cấy trồng.
Người Cao Lan ở Khe Nghè có các giống lúa:
Chi tiết
8
Đối với lúa nương: Tra hạt tháng 4, thu hoạch tháng 9, tháng 10.
Lúa chiêm: Cấy vào tháng 2, gặt tháng 4, tháng 5.
Lúa mùa: Cấy tháng 5, tháng 6, gặt tháng 9, tháng 10.
Chi tiết
9
Về thu hoạch và bảo quản lúa: Trước kia người Cao Lan không canh tác vụ chiêm nên mùa thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 10 âm lịch.
Lúa mùa gặt vào tháng chín, lúa nương được thu hoạch vào tháng 9 tháng 10.
Lúa mang về nhà, đồng bào lại cởi hết các bó lúa rồi xếp thành hình tròn trên sân, để phần bông lúa quay lên trên, ở giữa sân, người ta dựng một trụ gỗ, trên đầu có suốt để lắp đà ngang
Chi tiết
10
Ngoài đại gia súc kể trên, trong gia đình người Cao Lan còn nuôi lợn. Hầu như gia đình nào cũng đều nuôi từ Iđến 3, 4 con lợn thịt.
Việc nuôi lợn là để bán lấy tiền, cung cấp nguồn thực phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày và những công việc lớn như cưới xin, ma chay, tế lễ, làm nhà mới.
Mặc dù trong dân tộc Cao Lan có nhiều dòng họ kiêng không ăn thịt chó nhưng mỗi gia đình đều nuôi từ 1 đến 2 con chó để cho chúng giữ nhà và phục vụ việc đi săn.
Chi tiết
11
Bông loại tốt sau khi tách hạt thì lấy hạt để riêng để làm giống. Hạt giôhg cho vào sọt (ân teo) treo lên vách nhà nơi râm mát để bảo quản cho vụ sau.
Sau khi tách hết hạt khỏi bông thì đánh cung cho các quả bông tơi ra.
Sau khi tách hết hạt khỏi bông thì đánh cung cho các quả bông tơi ra.
Chi tiết
12
Đa số những bộ phận này đều tham gia vào việc giăng sợi thành một thảm chỉ dọc trước mặt người dệt, để người dệt ngồi một chỗ “đan” chỉ ngang qua thảm dọc kia.
Khi sợi đã được giăng thành thảm dọc, với sự tham gia của các bộ phận rời đã nói, thì tổng thể ấy được mang một tên chung: “cự thoọc”.
Và tất nhiên khi người dệt hoàn thành sản phẩm của mình, tháo nó ra thì cạ thoọc cũng không còn nữa.
Chi tiết
13
Nhuộm vải phải xem ngày giờ đẹp, thường là ngày Tý, hoặc mùng 9, 19, 29.
Trước khi nhuộm mang vải ra suối giặc để nước ngấm đều sợi vải, lấy lá chè tươi luộc cùng vải rồi ngâm một đêm, sáng hôm sau vớt ra phơi khô rồi cho vào chum chàm.
Thời gian nhuộm khoảng 4 giờ đồng hồ. Cho vải vào lúc 6- 7 giờ sáng, sau đó vớt ra chao ở suối nước rồi đem phơi
Chi tiết
14
Xưa kia, ở bản Khe Nghè có nhiều người biết làm giấy dó truyền thống. Họ tự làm để sử dụng trong việc ghi chép lịch pháp, sổ sách hay phục vụ cúng bái.
Cũng có người làm giấy để đem ra chợ vùng chợ huyện bán lấy tiền.
Khoảng chục năm gần đây, cả bản chỉ còn hai người biết làm giấy, đó là cụ Tống Văn Xạch và Tống Văn Vinh
Chi tiết
15
Trang phục thày cúng của người Cao Lan bản Khe Nghè
Nghề làm thuốc nam của người Cao Lan bản Khe Nghè
Chi tiết
16
5. Kinh tế rừng và khai thác tự nhiên:
Kinh tế hái lươm:
Trước năm 1945, người Cao Lan sống theo lối du canh du cư. Đồng bào phát nương, làm rãy, cấy lúa, trồng ngổ để lấy lương thực nuôi sống con người
Chi tiết
17
PHẨN BA: VĂN HOÁ VẬT CHẨT
1. Trang phục truyền thống:
Khi đã có vải, người Cao Lan có thể tuỳ ý cắt may thành quần, áo, khăn mũ, chăn, màn..
Chi tiết
18
- Áo của phụ nữ Cao Lan mặc trong ngày thường là loại áo vải chàm thâm, tay chẽn, hơi rộng ngang, cổ áo tựa như cổ áo tân thời của người Kinh, cao khoảng 2cm.
Hai bàn cổ không khít nhau mà để hở khoảng 3-4cm. ầo mở nẹp, cài cúc ở giữa.
Hai bàn cổ không khít nhau mà để hở khoảng 3-4cm. ầo mở nẹp, cài cúc ở giữa.
Chi tiết
19
cổ áo bên phải thêu 2 hình thoi dọc theo chiều nẹp của cổ - 2 hình này được thêu bằng chỉ màu xanh đỏ làm nổi bật chiếc áo.
Trong hai hình thoi này, người ta thêu các hình chữ thập ngoặc, cây hoa bên trong với cục cân xứng, hài hoà.
Sau lưng áo phía trên có một mảng các hình khối được thêu bằng chỉ trắng các hoạ tiết cây thông, chim uyên ương và các hình chữ thập ngoặc, hoa lá.
Chi tiết
20
b. Trang phục của nam giới:
Trang phục nam giới của dân tộc Cao Lan đơn giản hơn nhiều so với nữ giới và nhiều nét giống trang phục nam dân tộc Tày, Nùng.
- Áo nam màu chàm. Thân sau xẻ một đường xuống tận đáy gấu áo. Có một hình vòng cung bao quanh cổ áo.
Chi tiết
21
Một bộ trang phục thầy cúng cũng gồm các thành phần: áo, quần, mũ.
Không như các trang phục khác trong cộng đồng thường đơn giản, ít thêu thùa trang trí, trang phục của thầy cúng người Cao Lan vô cùng nổi bật với những màu sắc rực rỡ,
đối lập nhau tạo nên sức hút mạnh mẽ được thêu trên hầu khắp diện tích áo, mũ.
Chi tiết
22
Cột trong nhà sàn cổ của người Cao Lan là loại cột lõi chôn sâu xuống đất chứ không kê tảng.
Đối với quan niệm của người Cao Lan thì cây cột có ý nghĩa rất cao cả, thiêng liêng
Nó có ý nghĩa như là cái trụ vững chắc biểu hiện sự thẳng thắn, khoẻ mạnh của con người.
Chi tiết
23
Công việc đục đẽơ được tiến hành khi có đủ nguyên vật liệu.
Từ xa xưa người Cao Lan luôn có ý thức sản xuất tự cấp tự túc, các vật dụng trong nhà hầu hết đều do họ sản xuất ra để dùng.
Họ tự làm con dao, dệt vải đến những đồ dùng sinh hoạt khác, ngoại trừ muối ăn.
Chi tiết
24
2.3. Bài trí nội thất và những ý nghĩa của nó:
Thông thường thì có một kiểu bài trí dưới đây: Từ cầu thang lên, bước vào một khoảng sàn nhỏ, sàn này là nơi để nước sinh hoạt được đựng vào các vại, nơi đây còn là chỗ treo xoong chảo nồi niêu và một số dụng cụ nấu ăn khác.
Phần sàn chính cao hơn phần sàn này một chút, nơi đó sinh hoạt gia đình diễn ra.
Chi tiết
25
Món ăn ngày thường của người Cao Lan đơn giản. Một bữa cơm của gia đình Cao Lan loại có mức kinh tế trung bình thì bữa cơm thường ngày cũng chỉ có chất bột là chính, chất đạm ít, rau xanh cũng không nhiều
Nếu một gia đình có khoảng 8 người trở lên thì mỗi bữa ăn chỉ có một nồi cơm to
Mâm ăn có bát canh rau trồng trong vườn hoặc lấy từ rừng về.
Chi tiết
1
2
>
»
Danh sách file đính kèm
×
Chi tiết hồ sơ
×
Mã hồ sơ:
Tên hồ sơ:
Tổng số file:
Có tính phí:
Kho:
Ngăn:
Hộp:
Không hạn chế
Hạn chế
Mật
;
Danh sách tài liệu đính kèm
Tên file
Tác vụ
;
Quá trình này có thể mất vài phút. Xin vui lòng chờ...